Nuôi con khoẻ
mạnh, thông minh là niềm vui, hạnh phúc, là mong muốn của mỗi người mẹ, mỗi gia
đình và là trách nhiệm thiêng liêng đối với giống nòi, đất nước. Muốn con khoẻ
mạnh, mỗi người mẹ cần phải biết chăm sóc sức khoẻ của mình, đặc biệt trong
thời kỳ có thai, cho con bú, vì sức khoẻ, bệnh tật của người mẹ trong thời kỳ
này đều có ảnh hưởng sâu sắc đế sự phát triển và sức khoẻ của đứa con trong
bụng hay đang được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ.
Trước hết, từ
trước lúc có dự định sinh con, người phụ nữ cần chuẩn bị cho mình một sức khỏe
tốt, không bị mắc các bệnh truyền nhiễm, mãn tính để tránh ảnh hưởng đến đứa
con sau này. Khi bắt đầu có thai nghén, nhằm đảm bảo một cuộc thai nghén bình
thường và sinh đẻ an toàn cho cả mẹ lẫn con, người mẹ cần đến cơ sở y tế đăng
ký quản lý thai, để được nhân viên y tế khám và theo dõi. Mỗi người mẹ đều phải
có phiếu khám thai hoặc phiếu theo dõi sức khoẻ tại nhà.
Bắt đầu có thai,
một số người mẹ thường cảm thấy mệt mỏi, chán ăn, hay có cảm giác buồn nôn hoặc
thèm ăn những thức ăn theo sở thích riêng của từng người. Các hiện tượng đó chỉ
diễn ra trong thời gian ngắn, sau đó người mẹ cần chăm lo ăn uống hợp lý và giữ
gìn sức khoẻ để thai phát triển bình thường.
Để theo dõi sự
phát triển của thai, người mẹ nên thực hiện việc khám thai định kỳ ít nhất 4
lần trong suốt thời kỳ thai nghén. Lần thứ nhất vào ba tháng đầu để xác định
chắc chắn có thai hay không, lần thứ hai vào ba tháng giữa để xem thai khoẻ hay
yếu để có kế hoạch bồi dưỡng cho người mẹ kịp thời, lần thứ ba và thứ tư vào ba
tháng cuối để xem thai có phát triển bình thường không, thuận hay ngược, tiên
lượng cuộc đẻ và dự kiến ngày sinh.
Trong thời kỳ có
thai, nhất là ở các tháng cuối, do thai chèn ép vào các mạch máu lớn của ổ
bụng, có thể có hiện tượng "xuống máu chân", phù nhẹ ở chân. Nếu thấy
phù toàn thân kèm nhức đầu, mờ mắt thì có thể do nhiễm độc thai nghén, phải đi
khám, thử nước tiểu, đo huyết áp, hạn chế ăn muối. Thường xuyên đi khám để
tránh tai biến khi đẻ.
Chế độ lao động,
nghỉ ngơi hợp lý, tinh thần thoải mái của người mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến thai
nhi. Nên lao động chân tay và trí óc một cách điều độ, tránh lao động mệt nhọc
quá sức. Quan niệm "Chửa con so,
làm cho láng giềng" để thai không quá to, dễ đẻ là không đúng. Vào tháng
cuối, người mẹ cần được nghỉ ngơi để có thời gian chuẩn bị cho con, cho mẹ, có
sức khoẻ tốt, tránh được tai biến khi đẻ.
Chế độ ăn uống của
người mẹ cũng có vai trò quan trọng quyết định đối với sự phát triển của thai
nhi. Người mẹ cần nhớ rằng phải ăn uống cho mình và cho cả con trong bụng. Nếu
người mẹ được ăn uống tốt, đầy đủ các chất dinh dưỡng thì người mẹ sẽ lên cân tốt.
Trong suốt thời kỳ có thai, người mẹ cần tăng được từ 10 đến 12 kí lô gam (trong đó, 3 tháng đầu tăng 1 kí lô gam, 3
tháng giữa tăng 4 đến 5 kí lô gam, 3 tháng cuối tăng 5 đến 6 kí lô gam). Tăng
cân tốt, người mẹ sẽ tích luỹ mỡ là nguồn dự trữ để tạo sữa sau khi sinh. Những
trường hợp người mẹ bị thiếu ăn hoặc ăn uống kiêng khem không hợp lý chính là
nguyên nhân của suy dinh dưỡng trong bào thai, trẻ đẻ ra có cân nặng thấp dưới
2500 gam.
Tăng cường chất
dinh dưỡng: Khi có thai, nuôi con bú, nhu cầu về năng lượng và các chất dinh
dưỡng đòi hỏi ở người mẹ cao hơn ở mức bình thường vì nhu cầu ngoài đảm bảo
cung cấp cho các hoạt động của cơ thể, sự thay đổi về sinh lý của người mẹ như
biến đổi về chuyển hoá, tích luỹ mỡ, tăng cân, sự tăng về khối lượng của tử
cung, vú, còn cần thiết cho sự phát triển của thai nhi và tạo sữa cho con bú.
Bổ sung chất đạm
và chất béo giúp việc xây dựng và phát triển cơ thể cho trẻ: Khi mang thai nhu
cầu chất đạm ở người mẹ tăng lên giúp việc xây dựng và phát triển cơ thể của
trẻ. Ngoài cơm (và lương thực khác) ăn đủ no, bữa ăn cho bà mẹ có thai cần có
thức ăn để bổ sung chất đạm và chất béo. Trước hết cần chú ý đến nguồn chất đạm
từ các thức ăn thực vật như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu khác và vừng lạc vân vân.
Bổ sung vi ta min,
chất khoáng và các yếu tố vi lượng: Trong khi có thai cũng như nuôi con bú, với
khẩu phần ăn cân đối sẽ đảm bảo cung cấp vi ta min, các chất khoáng và các yếu
tố vi lượng. Trong thời kỳ có thai, cần khuyên người mẹ nên ăn các loại thức
ăn, thực phẩm có nhiều vi ta min xê như rau, quả, các loại thức ăn có nhiều can
xi, phốt pho (như, cá, cua, tôm, sữa, vân vân) để giúp cho sự tạo xương của
thai nhi. Các thức ăn có nhiều sắt như thịt, trứng, các loại đậu đỗ… để đề
phòng thiếu máu.
Khi cho con bú, đề
phòng bệnh khô mắt do thiếu vi ta min A, người ta khuyên người mẹ nên ăn các
thức ăn có nhiều bờ rô tê in và vi ta min như trứng, sữa, cá, thịt, đậu đỗ và
các loại rau, quả có nhiều ca rô ten (tiền vi ta min A) như rau muống, rau
ngót, rau dền, đu đủ, gấc, xoài, vân vân.
Ngoài ra, nên cho
người mẹ trong vòng một tháng đầu sau khi sinh uống một liều vi ta min A liều
lượng 200.000 đơn vị để đủ vi ta min A trong sữa cho con bú 6 tháng đầu.
Trong thời gian có thai, cho con bú, nếu người mẹ được sự
quan tâm, chǎm sóc chu đáo của gia đình và xã hội, được sự theo dõi đầy đủ của
nhân viên y tế, đó là nguồn động viên giúp họ yên tâm, phấn khởi, tin tưởng
sinh đẻ được "mẹ tròn con vuông" và nuôi con có nhiều sữa, con cái sẽ
khoẻ mạnh, ít ốm đau, bệnh tật.
Cần phòng chống
thiếu máu dinh dưỡng khi có thai: Thiếu máu là bệnh dinh dưỡng hay gặp ở phụ nữ
có thai, đặc biệt là ở những người đẻ dày và ǎn uống thiếu thốn. Bệnh thiếu máu
có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ cả mẹ lẫn con.
- Đối với mẹ: Người mẹ thiếu máu thường mệt mỏi, chóng mặt,
khó thở khi gắng sức, khi đẻ có nhiều rủi ro. Tỷ lệ tử vong khi đẻ ở những
người mẹ thiếu máu cao hơn hẳn ở bà mẹ bình thường. Do đó người ta đã coi thiếu
máu là một yếu tố nguy cơ trong sản khoa.
- Đối với con: Thiếu máu thường gây tình trạng đẻ non và tử
vong sơ sinh cao. Thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh thường là do mẹ bị thiếu
sắt nên lượng sắt dự trữ của cơ thể trẻ thấp.
Ǎn uống hợp lý là
biện pháp phòng chống bệnh thiếu máu tốt nhất, các thức ǎn có nhiều chất sắt là
các loại đậu đỗ, các loại rau xanh (như rau ngót, rau dền, rau khoai, rau bí,
vân vân), các loại phủ tạng như tim, gan, thận, vân vân.
Bổ sung viên sắt:
Ngay từ khi bắt đầu có thai, tất cả các bà mẹ nên uống viên sắt. Với loại viên
có hàm lượng là 60 miligam sắt nguyên tố, ngày uống một viên trước khi ngủ.
Uống liên tục trong suốt thời kỳ có thai đến một tháng sau khi sinh. Để tǎng
quá trình chuyển hoá và hấp thu sắt, cần tǎng cường vi ta min C, do đó cần ǎn
đủ rau xanh và các loại quả chín. /. Lê Huy sưu tầm